Theo Bộ LĐ-TB-XH, hiện tình trạng chậm đóng, trốn đóng BHXH đang diễn ra ở nhiều doanh nghiệp (DN), địa phương, bình quân trên 10.000 tỉ đồng/năm. Đặc biệt, vẫn còn tình trạng chậm đóng, trốn đóng BHXH diễn ra thời gian dài, khó có khả năng thu hồi, ảnh hưởng tới việc giải quyết chế độ BHXH của người lao động, nhất là chế độ hưu trí, tử tuất.
Để hạn chế thiệt thòi cho người lao động và tháo gỡ vướng mắc trong giải quyết các chế độ BHXH cho người tham gia, tại Luật BHXH 2024 (hiệu lực từ 1-7-2025) đã bổ sung quy định về thực hiện chế độ hưu trí, tử tuất đối với người lao động trong trường hợp người sử dụng lao động (NSDLĐ) không còn khả năng đóng.
Tại dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc, quy định này đã được Bộ LĐ-TB-XH đề xuất chi tiết hơn.
Theo đó, đối tượng áp dụng là người lao động trong trường hợp NSDLĐ không còn khả năng đóng BHXH trước ngày 1-7-2024.
NSDLĐ không còn khả năng đóng BHXH cho người lao động thuộc một trong các trường hợp: đã có quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án theo quy định của pháp luật về phá sản; đang làm thủ tục phá sản; được cơ quan quản lý thuế xác định không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ đã đăng ký hoặc được tổ công tác liên ngành giữa cơ quan BHXH, các cơ quan có liên quan và UBND xã, phường, thị trấn nơi NSDLĐ đặt trụ sở xác định đơn vị, DN không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ đã đăng ký; bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký DN; không có người đại diện theo pháp luật, người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.
Căn cứ xác định NSDLĐ không còn khả năng đóng BHXH cho người lao động, gồm:
– Quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án đối với trường hợp đã có quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án theo quy định của pháp luật về phá sản;
– Quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án đối với trường hợp đang làm thủ tục phá sản;
– Thông tin về tình trạng pháp lý “Không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ đã đăng ký” của DN tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký DN hoặc văn bản xác định của tổ công tác liên ngành giữa cơ quan BHXH, các cơ quan có liên quan và UBND xã, phường, thị trấn nơi NSDLĐ đặt trụ sở đối với trường hợp không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ đã đăng ký;
– Quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký DN đối với trường hợp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký DN;
– Thông báo của cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh doanh thuộc UBND cấp tỉnh đối với trường hợp không có người đại diện theo pháp luật.
Thời gian được xác nhận thời gian đóng BHXH của người lao động để giải quyết chế độ hưu trí, tử tuất là thời gian đóng BHXH bao gồm cả thời gian chậm đóng, trốn đóng BHXH bắt buộc trước ngày 1-7-2024 (không bao gồm thời gian người lao động nghỉ việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng, trừ thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về BHXH).
Việc giải quyết chế độ hưu trí, tử tuất đối với người lao động trong trường hợp NSDLĐ không còn khả năng đóng BHXH thực hiện theo quy định của Luật BHXH và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH.
Kinh phí đảm bảo thời gian đóng BHXH mà người lao động được xác nhận để làm cơ sở giải quyết chế độ hưu trí, tử tuất là số tiền chậm đóng, trốn đóng BHXH bắt buộc vào quỹ hưu trí và tử tuất mà người lao động, NSDLĐ phải đóng cho thời gian này, không bao gồm tiền lãi quy định tại khoản 3 Điều 122 của Luật BHXH 2014 và số tiền 0,03%/ngày phải nộp theo quy định tại khoản 1 Điều 40, khoản 1 Điều 41 của Luật BHXH 2024.
Nguồn kinh phí thực hiện là từ nguồn thu xử lý chậm đóng, trốn đóng quy định tại khoản 3 Điều 122 của Luật BHXH 2014 và số tiền 0,03%/ngày thu được theo quy định tại khoản 1 Điều 40 và khoản 1 Điều 41 của Luật BHXH 2024