Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nói không có chuyện phạt bất cứ hộ kinh doanh nào liên quan hóa đơn điện tử và Cục Thuế vẫn đang hỗ trợ họ tối đa để sử dụng thành thạo.
Sáng 19/6, Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng là thành viên Chính phủ đầu tiên “mở màn” phiên chất vấn, trả lời chất vấn kéo dài 1,5 ngày tại kỳ họp 9 của Quốc hội.
Bộ trưởng Thắng nhận được nhiều câu hỏi xoay quanh chính sách bỏ thuế khoán của các hộ kinh doanh, giải pháp để đạt mục tiêu tăng trưởng trên 8% năm nay, thu hút vốn FDI và kinh tế tư nhân để nguồn lực này góp phần vào tăng trưởng kinh tế.
Đây là lần đầu Bộ trưởng Tài chính đăng đàn trả lời chất vấn Quốc hội sau khi Bộ Tài chính và Kế hoạch & Đầu tư hợp nhất.

Bộ trưởng Tài Chính Nguyễn Văn Thắng. Ảnh: Phạm Thắng
‘Chưa hộ kinh doanh nào bị phạt liên quan đến hóa đơn điện tử’
Ông Lã Thanh Tân, Phó trưởng đoàn TP Hải Phòng, hỏi trong số hơn 5 triệu hộ kinh doanh hiện nay, nhiều hộ có quy mô hoạt động rất lớn nhưng vẫn chưa chính thức gia nhập khu vực doanh nghiệp. Họ còn e ngại về chi phí, thủ tục và nghĩa vụ tài chính. Thực tế này cho thấy cần có những chính sách đột phá khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp, nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng to lớn của khu vực này. “Bộ trưởng có giải pháp đột phá nào để thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển thành doanh nghiệp”, ông Tân chất vấn.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho biết, các hộ kinh doanh có doanh thu rất lớn nhưng chưa chuyển đổi sang doanh nghiệp là tiềm năng rất lớn để Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp năm 2030.
Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ đã quy định chính sách hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp. Tuy nhiên, sau hơn 7 năm triển khai luật, có thể nói số lượng hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp “không nhiều”.
Nguyên nhân, theo ông Thắng là chi phí tuân thủ của hộ kinh doanh và doanh nghiệp vẫn còn khoảng cách lớn. Hộ kinh doanh chưa nắm rõ pháp luật về doanh nghiệp và chưa quen với quản lý sổ sách, kế toán, do đó có tâm lý e ngại chuyển đổi. Hộ kinh doanh được áp dụng thuế khoán ưu đãi, chế độ sổ sách, hóa đơn, chứng từ… đơn giản hơn doanh nghiệp nhiều.
Để khuyến khích họ chuyển đổi thành doanh nghiệp, ông Thắng cho biết sẽ rà soát, hoàn thiện khung pháp lý về hộ kinh doanh để thu hẹp tối đa khoảng cách về tổ chức quản trị và sổ sách kế toán, tài chính giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp.
Đồng thời, Bộ sẽ tham mưu sớm hoàn thiện khung pháp lý về nâng cấp hạ tầng kỹ thuật để triển khai bãi bỏ thuế khoán với hộ kinh doanh từ 1/1/2026. Đây là giải pháp căn cơ để minh bạch hóa hoạt động của các hộ kinh doanh, thúc đẩy chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp.
Nhiều chính sách hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp được đưa ra như miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 3 năm đầu thành lập, bãi bỏ lệ phí môn bài, cung cấp miễn phí nền tảng số, hệ thống kế toán dùng chung.
“Khi chuyển đổi sang doanh nghiệp, hộ kinh doanh sẽ được hưởng nhiều chính sách hỗ trợ hơn”, ông Thắng nói.
Từ 1/6, theo Nghị định 70, các hộ kinh doanh khoán có doanh thu trên 1 tỷ đồng mỗi năm thuộc một số ngành nghề (ăn uống, khách sạn, bán lẻ…) phải sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền, kết nối dữ liệu với cơ quan thuế.

Đại biểu Phạm Văn Hòa. Ảnh: Giang Huy
Giơ biển tranh luận, đại biểu Phạm Văn Hòa cho biết từ sáng đến giờ Bộ trưởng trả lời rất nhiều về nội dung thu thuế thông qua hóa đơn điện tử. Tuy nhiên, ông Hòa muốn chia sẻ là hiện nay rất nhiều hộ cá nhân, cá thể, tiểu thương lúng túng về hóa đơn điện tử. Vậy nên, ông đề nghị Bộ trưởng có giải pháp để các hộ kinh doanh thực hiện được hóa đơn điện tử cho tốt, mà không phải lo bị cơ quan thuế phạt.
“Họ rất sợ bị phạt bởi lúng túng, không biết dùng hóa đơn điện tử mà lâu nay chỉ sử dụng tiền mặt”, ông Hòa nói.
Vấn đề khác là có hiện tượng hộ tư thương “lách luật” khi khách hàng trả tiền mặt và không cần hóa đơn, nên họ không xuất hóa đơn điện tử. “Cơ quan thuế sẽ giải quyết những tình huống này như thế nào? Bởi không có hóa đơn thì đương nhiên họ sẽ trốn thuế”, ông Hòa nêu vấn đề.
Sau phần tranh luận của ông Hòa, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn điều hành phiên chất vấn cho biết, nội dung về hóa đơn điện tử đã được Bộ trưởng Thắng trả lời, nên vấn đề ông Hòa nêu không được trả lời lại. “Nếu cần, Bộ trưởng Thắng trả lời thêm bằng văn bản cho đại biểu Hòa biết”, ông Mẫn nói.

Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng trả lời chất vấn. Ảnh: Phạm Thắng
Tuy vậy, Bộ trưởng Thắng vẫn trả lời, cho biết khi triển khai hóa đơn điện tử thời gian đầu có nhiều vướng mắc. Bộ Tài chính và Cục Thuế đã phối hợp với địa phương hướng dẫn, hỗ trợ các hộ kinh doanh để triển khai.
Cục Thuế cho biết đến nay đang hỗ trợ tối đa cho các hộ kinh doanh sử dụng hóa đơn điện tử chứ “chưa phạt ai”. “Không có câu chuyện phạt bất cứ hộ kinh doanh nào trong việc triển khai hóa đơn điện tử. Trừ khi sau này đã triển khai thông suốt rồi mà có hộ kinh doanh vẫn cố tình vi phạm thì mới tính đến phạt”, ông Thắng cho hay.
Về vấn đề hộ kinh doanh lách luật khi yêu cầu khách hàng trả tiền mặt và không xuất hóa đơn điện tử, Bộ trưởng Thắng khẳng định “đây không phải tình trạng phổ biến mà chỉ là một vài trường hợp”. “Đây là hành động không đúng quy định pháp luật, vi phạm Luật Thuế. Chúng tôi sẽ tăng cường tuyên truyền để tất cả các hành vi này phải chấm dứt”, ông Thắng nêu quan điểm.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, đến cuối 2024 cả nước có khoảng 3,6 triệu hộ, cá nhân kinh doanh đang được quản lý thuế. Trong đó, số hộ kinh doanh ổn định là 2,2 triệu hộ. Tổng thuế thu từ khu vực này đạt gần 26.000 tỷ đồng vào năm ngoái.
Trong đó, nhiều hộ kinh doanh có doanh thu lớn, ngang với các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Chẳng hạn, thống kê có hơn 4.000 hộ có doanh thu trên 10 tỷ đồng. Trong đó, có 860 hộ kinh doanh thu từ 30 tỷ đồng trở lên. 5 hộ ghi nhận doanh thu trên 200 tỷ đồng mỗi năm, hoạt động trong các lĩnh vực thủy sản, thực phẩm, dược phẩm, giáo dục và nông sản.
Việt Nam hiện có trên 5,2 triệu hộ kinh doanh, tạo ra 8-9 triệu việc làm, tương đương với khối công ty tư nhân, theo số liệu của Cục Thống kê. Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đặt mục tiêu cả nước có 2 triệu doanh nghiệp vào 2030 và 3 triệu tới 2045. Tức là, bình quân mỗi năm cả nước có thêm 30.000-40.000 doanh nghiệp.
Doanh nghiệp FDI sẽ phải chuyển giao công nghệ
Đại biểu Lê Thị Ngọc Linh nêu vấn đề, kinh tế tư nhân là một trong những đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, thời gian qua nhiều doanh nghiệp tư nhân còn gặp khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn, công nghệ và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Bộ trưởng có chính sách đột phá nào khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư vào nghiên cứu, phát triển đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thay vì chỉ tập trung vào các lĩnh vực truyền thống. Liệu có cơ chế tài chính đặc thù để hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân đầu ngành vươn tầm khu vực và quốc tế hay không, bà Linh đặt câu hỏi.

Các đại biểu theo dõi phiên chất vấn Bộ trưởng Tài chính, sáng 19/6. Ảnh: Trung tâm báo chí Quốc hội
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng trả lời phần lớn doanh nghiệp tư nhân, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam hiện nay vẫn đứng ngoài hoặc tham gia ở tầng giá trị thấp trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thực trạng này xuất phát từ ba nguyên nhân chính, trước hết là năng lực nội tại của doanh nghiệp tư nhân trong nước còn hạn chế, chưa đáp ứng được tiêu chuẩn khắt khe của các chuỗi cung ứng toàn cầu. Mặt khác doanh nghiệp FDI khi vào Việt Nam thường mang theo hệ sinh thái từ nước ngoài, nên không mở được không gian hợp tác cho doanh nghiệp trong nước. “Chính sách khuyến khích doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam, nói thật là chưa đủ mạnh để các doanh nghiệp lớn hoặc doanh nghiệp FDI hỗ trợ, dẫn dắt doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng phát triển”, Bộ trưởng Thắng nói.
Vì vậy, Bộ Tài chính đang tích cực thực hiện 5 nhóm giải pháp, trước hết là phát triển chuỗi liên kết ngành giá trị cao, đặc biệt trong công nghiệp hỗ trợ, công nghệ thông tin, công nghiệp sáng tạo. Doanh nghiệp FDI được khuyến khích dẫn dắt chuỗi cung ứng nội địa, kết nối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chính sách ưu đãi đầu tư sẽ được điều chỉnh trong đó có ràng buộc điều kiện chuyển giao công nghệ. Các dự án FDI lớn cần có kế hoạch sử dụng chuỗi cung ứng từ doanh nghiệp nội địa, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. “Trong quá trình thu hút đầu tư, tất cả các vấn đề này phải được đặt ra và có yêu cầu cụ thể, có tính pháp lý để các doanh nghiệp FDI phải tuân thủ, tránh như thời gian vừa qua”, Bộ trưởng Thắng khẳng định.
Giải pháp tiếp theo ông Thắng nêu là rà soát sửa đổi chính sách thuế để các doanh nghiệp lớn hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, như là cho phép doanh nghiệp lớn được tính vào chi phí được trừ để xác định chi phí chịu thuế với chi phí đào tạo và đào tạo lại nhân lực doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia chuỗi.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng được hỗ trợ đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, đầu tư máy móc, thiết bị…

Đại biểu Mai Văn Hải. Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội
Trả lời đại biểu Mai Văn Hải về vấn đề liên quan đến thu hút FDI trong bối cảnh mới, ông Thắng cho hay xu hướng đầu tư toàn cầu hiện nay tập trung vào lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ lõi, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo…
Khu vực Đông Nam Á nổi lên là ưu tiên hàng đầu của một số quốc gia nhờ khu vực này có tăng trưởng tích cực. Việt Nam được đánh giá là điểm đến hấp dẫn của dòng vốn đầu tư quốc tế nhờ chiến lược thu hút FDI phù hợp. Việt Nam có chính trị ổn định, vị thế cao, môi trường đầu tư thuận lợi.
Dòng vốn FDI vào Việt Nam được duy trì “rất tích cực”, bất chấp tác động bất lợi từ bên ngoài. Tính đến 31/5, cả nước có 44.000 dự án FDI, tổng vốn đăng ký đạt 517 tỷ USD; vốn thực hiện lũy kết đạt 331,5 tỷ USD. Khu vực FDI đóng góp 20,5 tỷ USD vào ngân sách nhà nước năm 2024. “Đây là con số đóng góp rất đáng kể”, Bộ trưởng Thắng cho hay.
Về định hướng thu hút FDI thời gian tới, để đạt được mục tiêu đặt ra là xây dựng đất nước thành quốc gia phát triển năm 2045, “cần chuyển dịch trọng tâm thu hút FDI có chọn lọc”. Cụ thể, Việt Nam sẽ ưu tiên dự án công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, giá trị gia tăng cao, thân thiện môi trường, thay vì chạy theo số lượng bằng mọi giá.
Nhóm đối tác chiến lược của Việt Nam như G7, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan, Mỹ, EU… là trọng tâm xúc tiến thu hút đầu tư gắn với các lĩnh vực Việt nam đang khuyến khích phát triển.
Dòng vốn FDI sẽ là cú hích cho đổi mới sáng tạo nội địa
Ông Phạm Hùng Thắng, Phó trưởng đoàn tỉnh Hà Nam cho rằng ưu điểm nổi bật vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là chuyển giao công nghệ. “Vốn FDI có tác động ra sao tới cải thiện khoa học công nghệ và giải pháp tăng chuyển giao công nghệ giữa khu vực này với doanh nghiệp trong nước thế nào?”, ông hỏi.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho biết chủ trương thu hút vốn FDI của Chính phủ là yêu cầu khu vực này phải chuyển giao công nghệ thực chất, nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo. Quyết định 29 của Chính phủ đưa ra nhiều ưu đãi đặc biệt với dự án FDI cam kết chuyển giao công nghệ.

Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng trả lời chất vấn sáng 19/6. Ảnh: Giang Huy
Để triển khai Nghị quyết 57 về đột phá trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, ông Thắng cho hay Bộ đang xây dựng thể chế để hình thành một số khu công nghiệp chuyên biệt phát triển khu công nghiệp thông minh, phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) để nâng cao hàm lượng công nghệ trong khu vực có vốn FDI, tạo sức lan tỏa cho doanh nghiệp trong nước.
Theo Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn, nhân lực ngành bán dẫn tới 2030, Việt Nam có ít nhất đào tạo 50.000 nhân lực cho chuỗi giá trị ngành này. Việt Nam cũng liên kết với các đối tác công nghệ hàng đầu để thành lập trung tâm nghiên cứu, ươm tạo thiết kế vi mạch…
Với các giải pháp này, ông Thắng tin dòng vốn FDI sẽ trở thành cú hích mạnh cho đổi mới sáng tạo nội địa, vươn lên trong chuỗi giá trị.
‘Kỷ luật tài khóa là nền tảng vững chắc để phát triển thịnh vượng’
Đại biểu Trần Hoàng Ngân chất vấn, trước khi sáp nhập, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch Đầu tư do mục tiêu khác nhau nên thường có quan điểm khác nhau. Bộ Kế hoạch và Đầu tư lúc nào cũng muốn ưu tiên tăng trưởng cao, triển khai nhiều dự án, tổng mức đầu tư lớn. Bộ Tài chính lại muốn ưu tiên kiểm soát nợ công, đảm bảo cân đối vốn, kiểm soát chi thận trọng.

Đại biểu Trần Hoàng Ngân nêu câu hỏi chất vấn sáng 19/6. Ảnh: Giang Huy
Bộ Kế hoạch và Đầu tư thích chính sách ưu đãi thuế thu hút đầu tư, giảm thuế, kích cầu. Còn Bộ Tài chính tập trung chống thất thu thuế, tăng thu ngân sách, giảm chi ngân sách.
“Với tư cách là Bộ trưởng sau sáp nhập, Bộ trưởng có giải pháp gì để đất nước tăng trưởng cao nhưng vẫn ổn định kinh tế vĩ mô”, ông Ngân chất vấn.
Tôi nghĩ rằng khi Đảng, Nhà nước, cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập Bộ Kế hoạch Đầu tư và Bộ Tài chính là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn”, ông Thắng bắt đầu phần trả lời đại biểu Trần Hoàng Ngân.
Do có ưu tiên khác nhau nên quá trình tìm tòi nhiệm vụ, giải pháp để đạt mục tiêu tăng trưởng là tất yếu, cần phải có sự trao đổi để tìm ra cách làm hiệu quả nhất, nhanh nhất, chính xác nhất nhằm giải bài toán phát triển quốc gia. Tất cả nhằm thực hiện thành công mục tiêu, định hướng, quan điểm phát triển mà Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã đề ra giúp đất nước phát triển nhanh, bền vững, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo tăng trưởng.
Theo ông Thắng, thực tế đã chỉ ra vấn đề đó. Vậy nên dù ở bất cứ giai đoạn nào, thì đảm bảo tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô cũng là mục tiêu xuyên suốt của cả 2 Bộ trước đây và hiện nay sau khi sáp nhập.
Minh chứng là các chỉ tiêu về an toàn nợ công Việt Nam được kiểm soát chặt chẽ, đến cuối 2024, nợ công Việt Nam chỉ còn 34,7% GDP, thấp hơn mức trần cho phép của Quốc hội.
“Điều này cho thấy ngay cả khi hai Bộ hoạt động độc lập thì cũng có sự phối hợp hiệu quả để giữ vững kỷ luật tài khóa, an ninh tài chính quốc gia”, ông Thắng nói và cho rằng, khi ổn định, kiểm soát chặt chẽ nợ công, đầu tư có trọng tâm trọng điểm thì mới có thể tiếp tục đẩy mạnh cải thiện đầu tư.
Việc hợp nhất hai bộ được ông Thắng đánh giá là “rất đúng đắn”. Trước đây, việc cân bằng giữa đầu tư và an toàn tài khóa là việc phối hợp giữa hai Bộ thì nay được giải quyết trong một thể thống nhất. Sự thống nhất này mang lại hiệu quả tổng hợp. Bộ Tài chính mới có tầm nhìn đồng bộ hơn về chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tài chính ngân sách, tham mưu phân bổ nguồn lực đầu tư được thực hiện thống nhất, đồng bộ, giúp quyết sách được đưa ra nhanh gọn, chính xác, không có độ trễ.
Quan trọng hơn, theo ông Thắng là Bộ Tài chính mới có điều kiện tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực tài chính quốc gia. “Vấn đề không phải là chi bao nhiêu mà quan trọng hơn là chi vào đâu để đem lại hiệu quả lớn nhất, hướng dòng vốn đầu tư công một cách tập trung, có trọng tâm, trọng điểm”, ông nói.
Việc hợp nhất hai bộ còn giúp Bộ Tài chính chủ động hơn khi huy động nguồn lực phát triển. Đơn cử là việc vay và kế hoạch trả nợ công sẽ được Bộ chủ động, linh hoạt hơn, đáp ứng yêu cầu các dự án và an toàn nợ công trong dài hạn.
Sự thống nhất nêu trên sẽ tạo ra tư duy điều hành mới hiệu quả hơn đó là tăng trưởng nhanh nhưng phải bền vững, đầu tư phải có hiệu quả, kỷ luật tài khóa là nền tảng vững chắc cho sự phát triển thịnh vượng.
Phiên chất vấn Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng kết thúc lúc 11h30. Đầu giờ chiều, Bộ trưởng Tài chính tiếp tục đăng đàn trả lời chất vấn các vấn đề đại biểu nêu trong phần cuối phiên sáng.
Anh Minh – Sơn Hà – Viết Tuân